Phẫu thuật cột sống thắt lưng là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật cột sống thắt lưng

Phẫu thuật cột sống thắt lưng là một quy trình phẫu thuật được thực hiện để giảm đau và tái thiết cấu trúc của cột sống thắt lưng. Phẫu thuật có thể được thực h...

Phẫu thuật cột sống thắt lưng là một quy trình phẫu thuật được thực hiện để giảm đau và tái thiết cấu trúc của cột sống thắt lưng. Phẫu thuật có thể được thực hiện để điều trị các vấn đề như thoái hóa đĩa đệm, suy yếu cơ, hiện tượng thoát vị đĩa đệm, đau thắt lưng mạn tính hoặc các tình trạng khác gây ra bởi sự tổn thương hoặc bất thường trong cột sống thắt lưng. Trong quá trình phẫu thuật, các bộ phận bị tổn thương hoặc không lành được chỉnh lại và các đĩa đệm hoặc bộ phận bị tổn thương khác có thể được tạo mới hoặc thay thế. Quy trình này có thể được thực hiện thông qua các phương pháp tiếp cận ngoài da, tiếp cận tiểu phẫu hoặc tiếp cận thông qua ống nội soi.
Phẫu thuật cột sống thắt lưng có thể được thực hiện thông qua một số phương pháp khác nhau, dựa trên tình trạng cụ thể của bệnh nhân và vị trí của vấn đề cột sống. Dưới đây là một số phương pháp phổ biến trong phẫu thuật cột sống thắt lưng:

1. Laminectomy: Phẫu thuật này thường được sử dụng để giảm áp lực lên dây thần kinh do đĩa đệm thoát vị, tạo ra không gian để dây thần kinh thoải mái hơn. Trong quá trình này, một phần của xương gọng cột sống, được gọi là lợi khễu (lamina), được loại bỏ.

2. Discectomy: Phương pháp này được sử dụng để loại bỏ hoặc giảm kích thước của đĩa đệm bị thoát vị gây ra áp lực lên dây thần kinh. Quá trình này thường bao gồm lấy đi một phần hoặc toàn bộ của đĩa đệm bị tổn thương.

3. Fusion cột sống: Quá trình fusion (hàn xương) được thực hiện để hàn các đốt sống lại với nhau để loại bỏ hoặc giảm sự chuyển động không mong muốn và giảm đau. Trong quá trình này, các đốt sống bị tổn thương được loại bỏ hoặc điều chỉnh và sau đó được hàn với nhau bằng vật liệu như ốc vít, thanh thép hoặc xương lấy từ bệnh nhân.

4. Artificial disc replacement: Thay thế đĩa đệm bị tổn thương bằng đĩa nhân tạo là một phương pháp mới phát triển trong phẫu thuật cột sống thắt lưng. Thay vì hàn các đốt sống, đĩa đệm bị tổn thương được thay bằng một đĩa nhân tạo giúp duy trì khả năng di chuyển tự nhiên của cột sống.

Trước khi quyết định phẫu thuật, bệnh nhân sẽ tham khảo ý kiến của các chuyên gia y tế và các xét nghiệm hình ảnh như CT Scan hoặc MRI để xác định vấn đề chính xác và lựa chọn phương pháp phẫu thuật phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật cột sống thắt lưng":

Kích thích tủy sống so với phẫu thuật lưng hông lặp lại cho cơn đau mạn tính: Một thử nghiệm ngẫu nhiên, có kiểm soát Dịch bởi AI
Neurosurgery - Tập 56 Số 1 - Trang 98-107 - 2005
Tóm tắt MỤC TIÊU:

Cơn đau rễ thần kinh kéo dài hoặc tái phát sau phẫu thuật cột sống thắt lưng cùng thường liên quan đến sự chèn ép rễ thần kinh và thường được điều trị bằng phẫu thuật lặp lại hoặc, như phương án cuối cùng, bằng kích thích tủy sống (SCS). Chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm có kiểm soát, ngẫu nhiên, nhằm kiểm tra giả thuyết của chúng tôi rằng SCS có khả năng mang lại kết quả thành công cao hơn so với phẫu thuật lặp lại theo các tiêu chí tiêu chuẩn về giảm đau và kết quả điều trị, bao gồm cả việc sử dụng tài nguyên chăm sóc sức khỏe sau đó.

#Kích thích tủy sống #phẫu thuật lưng hông #cơn đau mạn tính #thử nghiệm ngẫu nhiên #cột sống thắt lưng cùng
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY CỘT SỐNG ĐOẠN NGỰC THẮT LƯNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP BẮT VÍT QUA DA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy cột sống đoạn ngực thắt lưng bằng phương pháp bắt vít qua da tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả toàn bộ bệnh nhân được chẩn đoán xác định là chấn thương cột sống mất vững đoạn ngực-thắt lưng, và được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da tại khoa Ngoại Thần kinh Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ 2019 – 2021. Kết quả: 38 bệnh nhân (28 nam, 10 nữ) tuổi trung bình là 40,4±11,3; nhóm tuổi 31-40 chiếm tỉ lệ cao nhất 36,9% đã được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da. Đánh gia sau phẫu thuật theo thang điểm VAS và sự cải thiện góc gù (góc Cobb) cột sống: Trong đó mức độ đau trung bình tính theo thang điểm VAS thời điếm sau phẫu thuật là 2,29 so với thời điểm trước phẫu thuật là 5,08; điểm góc gù chấn thương trung bình trước phẫu thuật và sau phẫu thuật là 14,8o ± 5,3o độ và 9,0o ± 5,3o độ. Thời gian phẫu thuật trung bình là 69,1±15,7 phút. Biến chứng trong phẫu thuật chúng tôi gặp 1 trường hợp tổn thương thành trước cột sống. Biến chứng sau chúng tôi gặp 1 trường hợp nhiễm trùng nông vết mổ. Kết luận: Phẫu thuật bắt vít qua da là phương pháp an toàn, hiệu quả, giảm thời gian điều trị chấn thương mất vững cột sống ngực lưng.
#Chấn thương cột sống ngực thăt lưng #phẫu thuật bắt vít qua da
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH CỘT SỐNG THẮT LƯNG CÙNG, GIẢI ÉP GHÉP XƯƠNG LIÊN THÂN ĐỐT 3 TẦNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC NĂM 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Mô tả chất lượng cuộc sống người bệnh sau phẫu thuật cố định cột sống thắt lưng cùng, giải ép ghép xương liên thân đốt 3 tầng (TLIF 3 tầng) tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức năm 2022 và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 61 bệnh nhân sau phẫu thuật TLIF 3 tầng. Nghiên cứu sử dụng thang điểm ODI, thang điểm VAS và bảng hỏi SF-36. Kết quả: Trước khi phẫu thuật, tất cả những người được hỏi đều có cảm giác đau ở mức độ khác nhau ở vùng thắt lưng và sau phẫu thuật 32,8% bệnh nhân không thấy đau ở vùng này. Bệnh nhân cảm thấy mức độ đau giảm đáng kể sau phẫu thuật và mức độ suy giảm chức năng cột sống được giảm bớt. Kết luận: Phẫu thuật TLIF 3 tầng cải thiện cả mức độ sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Các yếu tố nghề nghiệp, thời gian sau phẫu thuật, mức độ đau, mức độ suy giảm chức năng cột sống thắt lưng, điểm sức khỏe thể chất và điểm sức khỏe tinh thần có liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau phẫu thuật TLIF 3 tầng.
#Chất lượng cuộc sống #thang điểm ODI #thang điểm VAS #SF-36 #phẫu thuật TLIF 3 tầng
Đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng hai bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng. 30 bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng theo chương trình được giảm đau trước mổ bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm tại Khoa Gây mê Hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2020. Ở nhóm gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng, điểm đau ANI tại thời điểm H5, H50, H80, H120, H150 trong mổ đều thấp hơn có ý nghĩa (p < 0,05), lượng fentanyl tiêu thụ thấp hơn (183,3[150 - 250] vs 343,3 [300 - 400]mg, p < 0,001) so với nhóm chứng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau trong mổ tốt cho các phẫu thuật cột sống thắt lưng.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng #giảm đau trong mổ #phẫu thuật cột sống thắt lưng.
SO SÁNH CHẤT LƯỢNG HỒI TỈNH VÀ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA DESFLURANE SO VỚI SEVOFLURANE TRONG GÂY MÊ ĐỂ PHẪU THUẬT CỘT SỐNG THẮT LƯNG TƯ THẾ NẰM SẤP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: So sánh chất lượng hồi tỉnh và tác dụng không mong muốn của desflurane so với sevoflurane trong gây mê để phẫu thuật cột sống thắt lưng tư thế nằm sấp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng tại phòng Hồi tỉnh, trung tâm Gây mê và Hồi sức ngoại khoa, Bệnh viện Việt Đức trong thời gian từ tháng 3/2022 đến tháng 6/2022. Nghiên cứu 60 bệnh nhân được chia 2 nhóm: Nhóm D gồm 30 bệnh nhân sử dụng desflurane và nhóm S gồm 30 bệnh nhân sử dụng Sevoflurane đều phẫu thuật cột sống thắt lưng ở tư thế nằm sấp và nhận được tiêu chuẩn gây mê như nhau. Kết quả: Chất lượng hồi tỉnh của 2 nhóm đều tốt nhưng nhóm sử dụng desflurane có thời gian thải thuốc nhanh hơn và thời gian phục hồi lâm sàng nhanh hơn. Kết luận: Có thể lựa chọn 1 trong 2 loại thuốc trên để gây mê cho bệnh nhân phẫu thuật cột sống mà vẫn đảm bảo về gây mê và an toàn. Nên xem xét sử dụng thuốc desflurane cho bệnh nhân vì thời gian hồi phục lâm sàng tốt hơn.
#gây mê phẫu thuật cột sống thuốc mê Desflurane #Sevoflurane #nằm sấp
SO SÁNH TÁC DỤNG DUY TRÌ MÊ CỦA DESFLURANE VỚI SEVOFLURANE TRONG GÂY MÊ ĐỂ PHẪU THUẬT CỘT SỐNG THẮT LƯNG TƯ THẾ NẰM SẤP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: So sánh tác dụng duy trì mê của desflurane so với sevoflurane trong gây mê để phẫu thuật cột sống thắt lưng tư thế nằm sấp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng tại phòng mổ cột sống, trung tâm Gây mê và Hồi sức ngoại khoa, Bệnh viện Việt Đức trong thời gian từ tháng 3/2022 đến tháng 6/2022. 60 bệnh nhân được chia 2 nhóm: Nhóm D sử dụng desflurane và nhóm S sử dụng Sevoflurane (mỗi nhóm 30 bệnh nhân) đều phẫu thuật cột sống thắt lưng ở tư thế nằm sấp và được gây mê như nhau. Kết quả: Không thấy có sự khác biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân dùng thuốc khác nhau về độ duy trì mê và về huyết động trong suốt quá trình phẫu thuật và sau phẫu thuật. Kết luận: Có thể lựa chọn 1 trong 2 loại thuốc trên để gây mê cho bệnh nhân phẫu thuật cột sống mà vẫn đảm bảo về gây mê và an toàn.
#gây mê phẫu thuật cột sống #nằm sấp #thuốc mê Desflurane #Sevoflurane
Kết quả xa khi sử dụng cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép trong phẫu thuật điều trị chấn thương cột sống Denis IIB ở vùng ngực thắt lưng
TẠP CHÍ Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 - - Trang 109-115 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xa của phương pháp phẫu thuật sử dụng cấu hình cố định ngắn và ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được tiến hành trên các bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB điều trị bằng phẫu thuật cố định cột sống cấu hình ngắn kết hợp ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2013 đến tháng 1/2017. Bệnh nhân được theo dõi từ 1 năm trở lên. Đặc điểm chung của bệnh nhân, tình trạng thần kinh, mức độ lún bờ trước thân đốt sống, góc gù thân đốt và góc gù vùng cột sống được đánh giá trước, sau phẫu thuật và tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. Các biến chứng liên quan được ghi lại. Kết quả: Có 36/40 bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ với thời gian theo dõi từ 17 đến 73 tháng (trung bình là 53,3 tháng). Thời gian phẫu thuật trung bình là 117,6 phút (từ 90 - 165 phút). Hình ảnh X-quang sau phẫu thuật cho thấy sự nắn chỉnh gù cột sống đạt kết quả tốt và được duy trì khá tốt tới thời điểm theo dõi cuối cùng. Có 9/36 bệnh nhân có tổn thương thần kinh không hoàn toàn trước phẫu thuật đã cải thiện từ 1 tới 2 bậc theo phân loại của ASIA. Phẫu thuật không làm tổn thương thần kinh ở 27/36 bệnh nhân. Kết luận: Cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép là một phương pháp phẫu thuật cho kết quả xa tốt điều trị bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB. Tỉ lệ liền xương tốt ở 91,7% và tỉ lệ thất bại dụng cụ 16,7%.
#Vỡ nhiều mảnh cột sống #cố định ngắn #ghép xương liên thân đốt
Kiến thức thực hành đúng về tư thế, vận động trước và sau can thiệp của người bệnh sau phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 2 - Trang 32-40 - 2020
Mục tiêu: Thay đổi kiến thức, thực hành nhằm cải thiện và duy trì tư thế, vận động đúng của người bệnh sau phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Đối tượng vàphương pháp nghiên cứu: Giáo dục sức khỏe trực tiếp, đánh giá trước và sau can thiệp không có nhóm chứng. Kết quả: Kiến thức đeo nẹp đúng khi thay đổi tư thế, tập vận động trước can thiệp(3,3%) sau tăng 76,7%. Tư thế lưng đúng 6,7% sau can thiệp tăng lên 80%. Tư thế vận động đúng khi đứng và đi lại trước can thiệp (16,7%) sau tăng (70%). Tư thế vận động đúng khi mang vật nặng trước can thiệp 10% sau tăng lên 76,7%. Tư thế lưng đúng thẳng và cân đối khi mang vật nặng trước can thiệp 40% sau tăng là 80%. Thực hành tư thế, vận động đúng ngày đầu sau phẫu thuật nằm thẳng trên ván cứng có đệm mỏng trước can thiệp 13,3% sau đạt 80%. Sau 3h vận động gấp duỗi chi đúng trước can thiệp 23,3% sau đạt 83,3%. Tư thế vận động ngày thứ 4 đúng trước can thiệp 16,7% sau tăng lên 86,7%.Tư thế ngồi xổm đúng trước can thiệp đạt 30% sau đạt 90,0%. Tư thế cột sống đúng khi mang vác vật nặng trước can thiệp 20% sau can thiệp đạt 93,3%. Kết luận: Kiến thức thực hành đúng về tư thế, vận động của người bệnh sau phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có sự cải thiện đáng kể sau can thiệp.
#Thoát vị đĩa đệm #tư thế vận động #vận động sau phẫu thuật #tư thế vận động sau phẫu thuật
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH CỘT SỐNG BẰNG VÍT TĂNG CƯỜNG CEMENT SINH HỌC CHO BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG NGỰC THẮT LƯNG CÓ LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật cố định cột sống ngực – thắt lưng bằng vít tăng cường cement sinh học cho bệnh nhân chấn thương cột sống ngực thắt lưng có loãng xương. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả theo dõi dọc hồi cứu và tiến cứu trên 34 bệnh nhân có chẩn đoán chấn thương cột sống ngực thắt lưng có loãng xương được phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong thời gian từ 06/2019 đến 6/2022. Kết quả: Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nam/nữ = 1.62/1; độ tuổi trung bình là 61,5 ± 13,2 tuổi. Đa số các bệnh nhân có biểu hiện đau cột sống ngực – thắt lưng (79,4%). Các bệnh nhân có biểu hiện tổn thương thần kinh chủ yếu ở mức độ trung bình và nhẹ (23,5%). Mức độ đau trung bình trước mổ VAS là 6,3 ± 1,7). Chỉ số giảm chức năng cột sống trước khi phẫu thuật của BN trung bình là 51,8 ± 12,3%, trong đó chủ yếu bệnh nhân bị mất chức năng cột sống nhiều chiếm 61,8%. Điểm T-score trung của bệnh nhân tham gia nghiên cứu là -3,9 ± 0,6. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là vùng bản lề ngực – thắt lưng chiếm 51,4%. Chiều cao của đốt sống giảm mạnh trước mổ, trung bình chiều cao tường trước (12,4 ± 1,8mm) và tường giữa (9,3 ± 1,7mm). Trung bình góc gù thân đốt sống là 25,9° ± 4,0 độ, góc gù vùng trước mổ là 25,8° ± 4,3 độ. Tính theo thang điểm TLIC, điểm trung bình của bệnh nhân là 4,65 ± 1,67. Thời gian phẫu thuật trung bình là 107,9 ± 15,9 phút, lượng máu mất trung bình là 300,0 ± 96,9ml, thời gian nằm viện trung bình là  6,6 ± 1,8 ngày. Tai biến trong mổ có rách màng cứng chiếm 2,9%, rò cement ra cạnh đốt sống chiếm 5,9%. Biến chứng sau mổ có 2,9% bệnh nhân nhiễm trùng vết mổ và 2,9% bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu, đều được điều trị đáp ứng với kháng sinh và ra viện. Chỉ số ODI 1 tháng và 6 tháng đều giảm đáng kể sau phẫu thuật có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000<0,001, Paired Samples T-Test). Kết quả chỉnh hình cột sống với góc gù thân đốt sống và góc gù vùng đều giảm đáng kể so với trước mổ có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000 <0,001, Paired Samples T-Test). Chiều cao của đốt sống cũng được khôi phục đáng kể so với trước phẫu thuật sau 1 tháng và 6 tháng có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000<0,001, Paired Samples T-Test). Chất lượng cuộc sống tốt và rất tốt sau mổ 6 tháng tính theo thang điểm Macnab đạt 94,1%. Tỉ lệ lỏng vít sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ rất nhỏ 0,37%, không có trường hợp nào gãy vít, nhổ vít, gãy rod, bong nẹp sau phẫu thuật. Trong số 34 bệnh nhân nghiên cứu, chỉ có 2 đốt sống liền kề bị tổn thương. Sau phẫu thuật có 94,1% bệnh nhân được điều trị loãng xương sau mổ. Kết luận:  Kết quả phẫu thuật cố định cột sống bằng vít tăng cường cement sinh học ở bệnh nhân chấn thương cột sống ngực – thắt lưng có loãng xương tương đối tốt, đạt kết quả cải thiện lâm sàng và kết qủa chỉnh hình cột sống đáng kể. Tỉ lệ tai biến trong và sau mổ thấp và không có biến chứng nào nặng nề.
#vít tăng cường cement sinh học #cố định cột sống ngực - thắt lưng có loãng xương
MÁY GIẢM ĐAU SCRAMBLER: MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ MỚI KIỂM SOÁT ĐAU SAU PHẪU THUẬT BẮT VÍT CỘT SỐNG THẮT LƯNG: CA LÂM SÀNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Kiểm soát đau sau phẫu thuật bắt vít cột sống thắt lưng bằng máy điều hòa thần kinh. Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi đang báo cáo một bệnh nhân nữ 68 tuổi đã trải qua phẫu thuật bắt vít cột sống thắt lưng: cố định D10-L2 và cô ấy đã được điều trị bằng máy giảm đau Scrambler vì cơn đau dữ dội sau phẫu thuật với tình trạng không dung nạp opioid. Kết quả: Kỹ thuật này đã được chứng minh là giúp giảm đau nhanh chóng và duy trì trong nhiều tháng để kiểm soát cơn đau cấp tính sau phẫu thuật hợp nhất cột sống. Kết luận: Đau cấp tính sau phẫu thuật cột sống là một trong những than phiền của bệnh nhân. Cơn đau này thường kéo dài ít nhất từ ​​ba đến bốn ngày. Trong một số trường hợp, nó có thể là cơn đau vừa hoặc nặng, ảnh hưởng đến quá trình hồi phục, kéo dài thời gian nằm viện và trở thành cơn đau mãn tính nếu bệnh nhân không được quản lý cơn đau tối ưu. Vì vậy, điều trị đau đa phương thức là cần thiết.
#Máy giảm đau Scrambler #phẫu thuật bắt vít cột sống
Tổng số: 51   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6